Theo báo Dân trí, ngày 20/3, chị V.L.L. (trú tại Bà Rịa – Vũng Tàu) chia sẻ với phóng viên Dân trí rằng nam tài xế GrabBike, người đã nhận nhầm 71 triệu đồng thay vì 71.000 đồng từ chị, đã liên hệ lại.
Biên nhận chuyển tiền nhầm cho tài xế của chị L. (Ảnh: A.H.).
Chiều 19/3, cả hai đã đến Công an phường 2 (TP Vũng Tàu) để làm việc và tìm hướng giải quyết. Tại đây, tài xế cho rằng việc chị L. đăng bài lên mạng xã hội đã ảnh hưởng đến tinh thần của anh và gia đình. Anh yêu cầu chị L. phải đăng thông tin xin lỗi và bồi thường tổn thất tinh thần thì mới hoàn trả số tiền đã nhận nhầm.
Tuy nhiên, chị L. không đồng ý, khẳng định mình không làm gì sai. Chị giải thích rằng việc đăng bài lên mạng xã hội chỉ nhằm tìm kiếm tài xế để lấy lại tiền, vì trước đó mọi nỗ lực liên lạc với anh đều không thành công.
“Sau khi chuyển nhầm tiền, tôi đã nhiều lần gọi điện nhưng không liên lạc được. Tôi cũng gửi thêm ba lần tiền (mỗi lần từ 5.000 đến 10.000 đồng) kèm nội dung đề nghị tài xế trả lại nhưng không nhận được phản hồi. Ngày hôm sau, tôi nhờ ngân hàng và Grab hỗ trợ liên hệ nhưng cũng không có kết quả, vì vậy tôi mới đăng thông tin lên mạng xã hội”, chị L. cho biết.
Chị cũng khẳng định nếu tài xế hoàn lại số tiền, chị sẽ làm việc với Grab để giúp anh được mở lại tài khoản và tiếp tục công việc.
Trước đó, vào ngày 15/3, chị L. đặt xe GrabBike từ chung cư Gateway (phường 10, TP Vũng Tàu) về TP Bà Rịa. Khi đến nơi, chị đã thanh toán 71.000 đồng nhưng sau đó phát hiện mình đã chuyển nhầm thành 71 triệu đồng. Dù nhiều lần liên hệ qua điện thoại và tin nhắn, tài xế vẫn không hồi đáp và đã khóa máy.
Theo báo Dân trí cũng có 1 bài viết liên quan đến vụ việc này: Vụ chuyển 71 triệu đồng cho tài xế Grab: Coi chừng trách nhiệm hình sự
Luật sư Dương Đức Thắng (Giám đốc Công ty Luật Đức Trí Tín, Đoàn Luật sư TP Hà Nội) đánh giá diễn biến hành vi của tài xế Grab từ việc không chủ động trả tiền, ngắt liên lạc hay gây khó dễ, bắt khách hàng phải xin lỗi, bồi thường mới trả tiền là không thể chấp nhận, gây ra bất bình với khách hàng và bức xúc trong xã hội. Với bất cứ lý do nào, tài xế cũng không được phép chiếm giữ số tiền 71 triệu đồng như trên của khách hàng.
Không chỉ trái với văn hóa ứng xử thông thường và vi phạm đạo đức xã hội, hành vi của tài xế còn có dấu hiệu vi phạm pháp luật và thậm chí có thể bị xem xét dấu hiệu của 2 hành vi khác nhau theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015.
Nếu cố tình chiếm giữ hoặc sử dụng các phương thức khác để không trả tiền cho chị L., tài xế có thể bị xem xét trách nhiệm hình sự (Ảnh: A.H).
“Theo nội dung hiện có, giá trị chuyến đi chỉ là 71.000 đồng, tức nếu các bên không có thỏa thuận nào khác, tài xế chỉ được phép nhận số tiền trên từ khách hàng. Việc chị L. chuyển cho tài xế số tiền 71 triệu đồng là sự nhầm lẫn, tai nạn, nằm ngoài ý chí chủ quan của nữ hành khách. Do đó, tài xế có trách nhiệm hoàn trả tiền cho khách hàng sau khi đã trừ đi 71.000 đồng tiền công. Nếu cố tình chiếm giữ hoặc sử dụng các phương thức khác để gây khó dễ, không hoàn trả cho khách hàng, có thể xem xét trách nhiệm tài xế về hành vi Chiếm giữ trái phép tài sản theo Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015.
Theo đó, mức phạt có thể áp dụng đối với người cố tình không trả lại cho chủ sở hữu tài sản trị giá từ 10 triệu đồng tới dưới 200 triệu đồng thì có thể bị áp dụng mức phạt là phạt tiền 10-50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm”, ông Thắng phân tích.
Về việc tài xế cho rằng chị L. đăng tải thông tin lên mạng xã hội khiến bản thân bị tổn thất tinh thần, đây là một vấn đề độc lập, không liên quan tới số tiền chuyển nhầm nêu trên và không phải căn cứ để tài xế được phép giữ lại số tiền này. Nếu cho rằng gia đình và bản thân bị ảnh hưởng bởi bài đăng, tài xế có nghĩa vụ chứng minh bằng các chứng cứ, tài liệu cụ thể để yêu cầu các cơ quan bảo vệ pháp luật giải quyết.
Trong trường hợp không có đầy đủ chứng cứ, không thể chứng minh tổn hại nhưng tài xế tiếp tục ép chị L. phải trả tiền bồi thường tổn thất một cách vô căn cứ thì mới hoàn trả số tiền nêu trên, cơ quan chức năng thậm chí có thể xem xét trách nhiệm của người này về hành vi có dấu hiệu Cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015.